Văn học Trung Quốc nói chung rất phong phú.  Thơ đời Đường và tiểu thuyết đời Minh- Thanh là hai thể loại văn học có những thành tựu lớn lao, là đóng góp của Trung Hoa vào nền văn học thế giới.   Nhà Đường chỉ tồn tại gần 300 năm (618-907), nhưng có tới 2.300 tên tuổi là thi sĩ với gần 49.800 bài thơ (theo sách Toàn Đường thi soạn năm 1705 trong Đời Thanh) Thơ Đường giàu về số lượng, muôn màu muôn vẻ của Nho-Phật-Lão, hình thức điêu luyện với  thi tiên Lý Bạch, thi thánh Đỗ Phủ và trở thành mẫu mực của thơ ca cổ điển Trung Hoa  Tiểu thuyết là thể loại văn học mới phát triển ở thời Minh – Thanh trên cơ sở những chuyện kể trong dân gian về những sự tích lịch sử.  Những tác phẩm lớn, nổi tiếng của thời Minh là Thủy Hử của Thi Nại Am,  Tam quốc chí diễn nghĩa của  La Quán Trung,  Tây du ký của Ngô Thừa Ân, của thời Thanh là Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần.  Những tiểu thuyết trên đồng thời là những bộ tiểu thuyết lớn của văn học thế giới.

Đã có nhiều công trình khảo cứu nêu bật ảnh hưởng Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu (1347-1433) đời Minh đối với văn học truyền kỳ ở Đông Á (bao gồm Nhật Bản, Triều Tiên, và Việt Nam)(1). Nay xin tập trung giới thiệu phác thảo quá trình truyền nhập và lưu hành bộ tiểu thuyết truyền kỳ Trung Quốc này ở Việt Nam cho đến thế kỷ 18.

TỪ TRUYỀN THUYẾT ẤN ĐỘ SHAKUNTALA ĐẾN KỊCH THƠ TÌNH YÊU SHAKUNTALA CỦA THI HÀO ẤN ĐỘ KALIDASA  

Nhà thơ, nhà viết kịch bằng tiếng Sankrit , nhà văn hóa lớn Kãlidãsa  (Kãlidãsa tiếng Bengal có nghĩa:  Kẻ hầu cận của Nữ thần / Diener der Goettin)   được coi là một trong “chín viên ngọc quý” của triều đình *Vikramadya thuộc triều đại Gupta  (320-480, triều  đại lừng lẫy nhất trong lịch sử Ấn Độ.

 

SHAKUNTALA  là vở kịch nổi tiếng của nhà thơ Kalidasa và là vở kịch hay nhất trong lịch sử văn học Ấn Độ.  Dựa theo truyền thuyết Shakuntala của văn học dân gian Ấn Độ kể về mối tình hồn nhiên trong sáng giữa nhà vua trẻ Dusyanta  (nghĩa: Mãnh hổ) và sơn nữ Shakuntala- một mối tình  rất thơ mộng,nhưng cũng đầy gian nan- một mối tình vượt ra ngoài lễ giáo phân biệt đẳng cấp khắt khe đương thời.   Kalidasa cải biên, thêm chi tiết để phù hợp  với sân khấu Triều đình, muốn làm nổi bật đề tài tình yêu. Shakuntala là kịch  thơ 7 hồi, viết theo  những quy tắc chuẩn mực của kịch cổ điển cung đình Ấn Độ: tính triết lý và tôn giáo sâu sắc,  phân biệt rõ chính – tà, khí phách hào hùng để tăng lòng sùng kính với thần thánh và quốc vương,  phải nhân bản khi kết thúc (kết thúc có hậu), phải viết bằng tiếng Sankrit, phải kết hợp nhuần nhuyễn  các quy phạm sân khấu dân gian.

Hồi 1:   Vua trẻ Dusyanta cùng đoàn tùy tùng đi săn trong rừng, mải đuổi theo con hươu nên lạc vào vườn tu của đạo sĩ Kanva.  Đạo sĩ không có nhà.  Nhà vua  gặp con gái nuôi của đạo sĩ.   Vẻ đẹp tươi tắn cùng „đôi mắt sáng long lanh đen láy“, nụ cười nở trên môi đỏ thắm của  sơn nữ hút hồn nhà vua trẻ.  

Hồi 2:   Nhà vua bàn với anh hề Madavia, làm sao có thể nán lại trong khu vườn để tỏ tình với sơn nữ.  Đúng lúc đó thì nhà vua nhận được lệnh của Đức Thái hậu phải về triều làm lễ cầu phúc.  Nhà vua cử anh hề thay mặt mình trong lễ cầu phúc.

Hồi 3:  Bị tiếng sét ái tình, nên sau khi gặp nhà vua trẻ, sơn nữ ốm tương tư.Các bạn gái đồng trang lứa bố trí cho cặp tình nhân sống bên nhau, kết hôn theo tục Gandarava  (trai gái kết hôn bỏ qua quyền của cha mẹ).   Đang lúc hạnh phúc tràn trề thì bỗng nhà vua nghe tiếng thiên thần nhắn nhà vua mau trở về đi dẹp loạn.

Hồi 4:   Để làm tin nhà vua tặng sơn nữ chiếc nhẫn khắc tên Dusyanta.   Trong những ngày trông ngóng nhà vua thì có lần đạo sĩ Durava ghé vào vườn tu xin nghỉ lại. Đang lúc

 

lo buồn nên Shakuntala không cúi chào đạo sĩ.  Bực mình, đạo sĩ niệm thần chú rằng người yêu của Shakuntala sẽ lú lẫn, quên hết lời thề khi trước.  Các bạn gái xin đạo sĩ lượng thứ, giảm tội cho Shakuntala.   Đạo sĩ bằng lòng giảm, người yêu sẽ sực nhớ lời thề khi xưa khi nhìn thấy chiếc nhẫn.  Lúc này Shakuntala đang mang thai nên các bạn gái giữ kín câu nguyền của đạo sĩ  Durava.   Khi cha nuôi Kanva về nhà thì nghe tiếng thiên thần báo, Thiên  đình thuận  cho Shakuntala kết duyên với vua Dusyanta và sẽ sinh một hoàng tử.  Cha nuôi – đạo sĩ Kanva phái sơn nữ Gotami cùng một số bạn gái đưa Sakountala tới hoàng cung.  Buổi chia tay đầy quyến luyến giữa cỏ hoa muông thú.

Hồi 5:  Shakuntala vào hoàng cung. Nhà vua không nhớ  nên không nhận ra sơn nữ khi xưa.  Khi các bạn gái nhắc tới cái nhẫn, thì mới biết đã đánh rơi ở sông Hằng. Nhà vua nổi giận, nhưng vì tục lệ nên Shakuntala phải ở lại.  Nàng sống trong cô đơn tuyệt vọng, cầu xin thiên thần cho mình về với Đất mẹ. Một đám mây kéo tới cuốn nàng đi.

Hồi 6 :   Một ngư dân  khi mổ bụng cá,  thấy chiếc nhẫn trong bụng con cá và đem nộp cho nhà vua.  Nhìn thấy chiếc nhẫn của mình, Dusyanta sực nhớ tới chuyện xưa, nhớ tới sơn nữ Shakuntala.

Hồi 7 : Dẹp loạn ma quỷ  thắng lợi, Dusyanta được gặp Kasyapa và Aditi, nhận thưởng công trạng.  Dusyanta gặp lại nàng Shakuntala vợ mình cùng đứa con tuấn tú có khả năng thuần được mãnh thú.  Họ trở về hoàng thành trong lễ đón tưng bừng của dân chúng. Hoàng tử Bharata (nghĩa: được trìu mến) lên thay vua cha trị vì thiên hạ.

Trong kịch Shakuntala, Kalidasa thêm tình tiết tặng nhẫn, lời nguyền của đạo sĩ Daruva, tình tiết rơi nhẫn ở sông Hằng, Shakuntala trở về với Đất mẹ.  Một ngư dân mổ bụng cá thấy chiếc nhẫn, đem nộp nhà vua, tình tiết dẹp loạn và nhận thưởng cũng là tình tiết Kalidasa thêm vào trong kịch, ở trong truyền thuyết không có chi tiết này.  Trong truyền thuyết chỉ là một lệnh do thiên thần gửi tới nhà vua.  Nhà vua tỉnh ngộ, đoàn tụ cùng vợ con. Kịch thơ Shakuntala  của Kalidasa mang tinh thần Hindu giáo, kết hợp hài hòa nhuần nhuyễn giữa tính sử thi của anh hùng ca và tính trữ tình, thấm đượm tính nhân bản, với khát khao tình yêu trong sáng và chung thủy.

Trong kịch  Shakuntala , nhà thơ vận dụng và phát triển tính hình ảnh và tính uyển chuyển của thơ ca Sankrit, của văn học dân gian để ca ngợi tình yêu lứa đôi, tình yêu thiên nhiên, tình yêu đất nước.

 

Kịch cổ Ấn  Độ thường đề cập đến những mối tình hồn nhiên, trong sáng đầy ma lực như những tiếng sét ái tình mà người Ấn Độ cho là thiêng liêng cao quý.    Shakuntala là tuyệt tác của văn học  Ấn Độ, là nguồn cảm hứng cho nhiều thế hệ văn nghệ sĩ  Ấn Độ.  Người ta  ngâm thơ, ca múa bằng thơ của kịch, dựng phim theo kịch .

William John dịch kịch Shakuntala sang tiếng Anh năm  1789. Năm 1791, kịch được Georg Forster dịch từ tiếng Anh sang tiếng Đức.  Nhà văn Nga Caramdin dịch kịch Shakuntala sang tiếng Nga năm 1792.   Kịch thơ Shakuntala được dịch sang tiếng Việt  năm 1962 và được Đoàn chèo Trung ương Việt Nam đưa lên sân khấu năm 1982.

Shakuntala là một trong những kiệt tác của văn học thế giới. Nhà văn Nga Caramdin, người đại diện cho chủ nghĩa tình cảm Nga nói:

-  Đối với tôi, Kalidasa cũng vĩ đại như Homer (của Hy Lạp).

Kịch thơ Shakuntala đã gây ấn tượng mạnh nơi các nhà văn Đức, đại văn hào Đức Johann Wolfgang Goethe ca ngợi:

-  Nếu muốn có một tiếng ôm ấp được cả hoa mùa xuân và quả mùa thu/  Một tiếng làm đắm say, nuôi dưỡng và thỏa mãn được tâm hồn/ Nếu muốn có một tiếng bao gồm được cả trời đất/ Thì tôi gọi Shakuntala/  Tiếng đó nói lên tất cả!

 

Rabindranath Tagore  (1861-1941)  là nhà văn hóa lớn Ấn Độ.  Ông xuất thân trong gia đình quý tộc Ba La Môn có nhiều người là nhân tài của đất nước Ấn Độ.  Cha là Debendranath Tagore, một triết gia đồng thời là nhà cải cách xã hội.  Tagore nổi tiếng thông minh từ thưở nhỏ:  8 tuổi đã làm thơ,  11 tuổi dịch kịch Macbeth của William Shakespeare ra tiếng Bengal.

Tagore yêu nước, yêu hòa bình, có lòng nhân đạo sâu sắc. Ông coi trọng truyền thống văn hóa Ấn Độ, biết kết hợp văn hóa Đông và Tây: 1901 mở Trường Santiniketan cho con em nông dân học.   1921 mở Trường đại học Visva – Bharati để cho thanh niên thế giới đến tìm hiểu văn hóa Ấn Độ.

Tagore để lại 52 tập thơ,  42 vở kịch, 12 bộ tiểu thuyết.

Những tập thơ nổi tiếng là  Người làm vườn (1914);   Tặng phẩm của người yêu (1914);   Trăng non (thơ trẻ em , 1915.  Nổi tiếng nhất là tập  Thơ dâng (1912);  Tập Thơ dâng được coi là kỳ công thứ hai của văn học Ấn Độ (sau kịch thơ Shakuntala của Kalidasa). Những tác phẩm tiêu biểu khác của Tagore là  kịch Lễ máu (1890); kịch Phòng bưu điện  (1913);  tiểu thuyết Đắm thuyền (1906);  tiểu thuyết Gora  (1910).

Rabinarath Tagore là nhà thơ lãng mạn trữ tình, một “ngôi sao sáng của Ấn Độ thời Phục hưng. Ông kết hợp nhuần nhuyễn truyền thống yêu nước và nhân bản của Ấn Độ với tinh hoa văn hóa phương Tây làm giàu thêm tinh hoa  văn hoá Ấn Độ.  Monhandas Karamchand “Mahatma” (tâm hồn vĩ đại)Gandhi (1869-1948) – lãnh tụ của phong trào giải phóng dân tộc Ấn Độ, gọi Tagore là “người thầy vĩ đại, người lính gác vĩ đại của Ấn Độ.  Thi sĩ Rabindranath Tagore  nhận giải thưởng Nobel văn học năm 1913.

 

 

THƠ DÂNG  ( Gitanjali)

   

Thơ dâng là tuyển tập chọn trong số những bài thơ của  Tagore sáng tác năm 1900 viết bằng tiếng Bengal, rồi chính nhà thơ dịch 103 bài thơ của mình ra văn xuôi tiếng Anh.  Đó là những bài thơ nhỏ không đề.  Thi sĩ muốn dâng cho cuộc đời nguyện vọng và lý tưởng cao đẹp của mình.   Ông khinh bỉ hèn nhát, ghét tàn bạo.  Ông cho rằng, người ta cần rèn luyện sức mạnh tinh thần, trau dồi tính cao thượng, trong sáng để phụng sự Cuộc đời và Con người.  Tập thơ phản ánh nỗi buồn do tàn phá, chia ly trên đất nước Ấn Độ, đồng thời cho thấy nguồn cảm hứng bất tận bởi ánh sáng, niềm vui, tình yêu và khát vọng. Theo Tagore,  Thượng đế không phải là đấng cao siêu, huyền bí.  Thượng đế hiện thân là cuộc sống lao động :

Thượng đế ở xa kia,

Nơi thợ cày nai lưng

Cày đất cằn sỏi cứng

Thượng đế ở cạnh người làm đường

Đang đập đá

Thượng đế cùng với họ vất vả

Dãi nắng, dầm mưa

Áo quần lấm bụi…

Cao Huy Đỉnh dịch

Nỗi đau của thi sĩ Tagore cũng là nỗi đau chung của đất nước Ấn Độ.  Ánh sáng, tình yêu, niềm tin và khát vọng trong tập thơ là dòng sữa tươi mát nuôi dưỡng những tâm hồn

 

 

Ấn Độ.   Thơ dâng là kiệt tác của văn học Ấn Độ, đồng thời là đóng góp của Ấn Độ trên văn đàn thế giới.

 

LỜI BÌNH :   Ấn Độ là quốc gia Nam Á,chiếm hầu hết tiểu lục địa Ân Độ, là nước đông dân thứ nhì thế giới.  Về mặt tiếng nói thì Ấn Độ là nước đứng thứ nhất thế giới. Trên đất nước này, người ta nói với nhau bằng 1.652 thứ tiếng.  Nhưng chỉ có 2 ngôn ngữ chính thức dùng trong hành chính là tiếng Hindi, tiếng Anh.  Khái niệm “Người Ấn Độ” mang tính quy tụ, để chỉ một tập hợp đa sắc tộc sống trên lãnh thổ Ấn Độ.  Ấn Độ  rất phong phú về động thực vật. Sống trong cảnh cư dân đông đúc, đất nước giàu tài nguyên, đầy ắp các loại hoa  với đủ các loài  thú dữ nên người Ấn Độ rất quen với những cách nhìn khác nhau, với những ý kiến khác nhau.  Cuộc sống ấy dạy cho họ tính kiềm chế và chịu đựng, cái  nhìn  việc đời  rất nhân bản:  bình đẳng và tôn trọng nhau, hòa đồng trong cuộc sống. Tác phẩm Sakountala của Kalidasa và tập Thơ dâng  của Tagore là những minh chứng sinh động cho tinh thần Ấn Độ.  Ấn Độ bị bao bọc bởi biển và núi nên nó có vẻ như một nước đóng kín.  Chỉ có một con đường mà dân di cư cũng như các đội quân xâm lược dùng để vào Ấn Độ là con đường mòn qua khe núi Hindu Kush vào Afghanistan, sau đó vào Punjab của Ấn Độ.  Nhiều bộ lạc và dân tộc khác nhau đã đến Ấn Độ và mang theo tập tục, tín ngưỡng, văn hóa riêng của mình.   Người bản địa “*kiên nhẫn, tiếp nhận một cách trân trọng, thậm chí còn hoan nghênh tính đa dạng của các tập tục và tín ngưỡng” (của người mới di cư tới). Đây là nét rất đặc trưng  Ấn Độ. Ấn Độ như  khu rừng nhiệt đới.  Với sức sung mãn của rừng nhiệt đới nó tiếp nhận tất cả, làm cho tất cả yếu tố ngoại lai thích nghi dần, tiếp thu các tư tưởng, tập quán, cuối cùng là suy ngẫm về chúng theo cách của người Ấn Độ.  Lăng Taj Mahal là một ví dụ.  Tính hung dữ, ham tàn phá trong con người Mông Cổ của hoàng đế  Cát Kiệt Hãn (Shah Jahan) đã biến thành tình yêu đằm thắm, thủy chung son sắt, bằng việc xây lăng Taj Mahal lộng lẫy cho người vợ quá cố của mình.  Lăng Taj Mahal là biểu tượng sức mạnh tình thương yêu của hoàng đế Cát Kiệt Hãn, đồng thời cũng là một kỳ quan thế giới- một biểu tượng tình yêu.   Lăng Taj Mahal như một hoa viên lớn:  trước lăng là hồ nước trong xanh.  Sóng nước lăn tăn bởi gió làm ta liên tưởng tới nỗi niềm u hoài thương nhớ người vợ thông minh, hiền hòa của hoàng đế Cát Kiệt Hãn, tới nước mắt của vị hoàng đế này. Cảnh tượng này làm xúc động lòng du khách bốn phương.  Đại thi hào Ấn Độ  Tagore gọi lăng Taj Mahal là giọt nước mắt trên gò má thời gian.

Trong khi người Ấn Độ an vui tự tại đón nhận những cái đến với mình thì người Trung Hoa dùng khuôn vàng thước ngọc của Nho học, Lão giáo để suy xét, rồi Trung Hoa hóa cái từ bên ngoài vào

 

*/   Lời nói của nhà hoạt động chính trị và xã hội nổi tiếng của Ấn Độ Jawaharlal Nehru (1889-1

Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Nguồn: http://www.vanchuongviet.org/vietnamese/vanhoc_tacpham.asp?TPID=12213&LOAIID=21&LOAIREF=1&TGID=2093 

 PHAN THU HIỀN (*)

Báo cáo này khái quát tình hình nghiên cứu yếu tố nội và ngoại sinh trong quá trình hình thành, phát triển “văn học mới” Korea. Trong tình hình “văn học mới” Korea hầu như chưa được tìm hiểu sâu sắc, có hệ thống ở Việt Nam, một cái nhìn khái quát như vậy có thể cần thiết để nhận diện những khía cạnh cơ bản về nội dung cũng như cách tiếp cận vấn đề, từ đó có thể tiếp tục suy ngẫm phương hướng nghiên cứu “văn học mới” Việt Nam nói riêng, “văn học mới” khu vực Đông Á nói chung.

Thi sĩ, thiền sư Nhật Bản Matshuo Basho (1644-1694)  sinh ra trong một gia đình samurai ở thị trấn Ueno xứ Iga.  Basho từng  sống ở chùa trên núi Koya.  Nơi đây chàng trai Matsuo Munefusa (họ tên thật của Basho)  cảm nghiệm được nỗi vô thường (mujo) và niềm cô tịch (sabi).  Basho học lại cổ văn Nhật ở thầy Kigin, học cổ văn Trung Quốc và thư pháp ở những thầy khác.

 Phạm Thị Hảo(*)

 

Quách Mạt Nhược là một hiện tượng  phức tạp đối với giới nghiên cứu học  thuật Trung Quốc. Cuộc đời ông có giai đoạn dài lừng lẫy huy hoàng với những hoạt động văn hoá và cách mạng tốt đẹp. Song có giai đoạn (thời kỳ cuối đời) do tư tưởng sùng bái cá nhân Mao Trạch Đông  cực đoan dẫn đến nhiều hành vi bị xem thường về tư cách, bị đánh giá thấp ở một số tác phẩm.

 
 

Điển cố đóng vai trò khá quan trọng trong văn học Việt Nam và Trung Hoa thời kỳ trung đại. Dùng điển cố, người sáng tác xưa không chỉ vận dụng nó như một phương tiện diễn đạt mà còn thể hiện vốn kiến thức dồi dào về lịch sử, văn học, xã hội, văn hóa, kinh nghiệm sống của người xưa. Tuy không còn đóng vai trò quan trọng trong việc sáng tác như xưa, nhưng nhìn lại nền văn học quá khứ, điển cố thực sự chiếm lĩnh một vai trò và thể hiện một chức năng mạnh mẽ trong sáng tác. Có giai đoạn, điển cố là phương tiện hàng đầu và hữu hiệu cho người cầm viết, từ tác giả của những bài thơ, bài văn, đến nhà ngoại giao, chính khách, thậm chí kẻ đi học cũng tự trang bị cho mình vốn kiến thức trong mười năm đèn sách và thể hiện điển cố trong bài thi.

Nguyễn Đình Phức (*)

 I. Quá trình hình thành và giai đoạn đầu trong lịch sử phát triển của thơ mới Trung Quốc

Thơ ca cổ điển Trung Quốc phát triển đến cuối đời Thanh, hình thức của nó đã không còn thích ứng với nhu cầu của xã hội. Thế nên, ngay từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, đặc biệt sau khi cuộc biến pháp Mậu Tuất thất bại, đứng trước nhu cầu cải cách, Lương Khải Siêu đã hô hào thực hiện cuộc cách mạng trong thơ. Trong Hạ Uy Di du ký viết năm 1899, ông nói: “Nếu China không thực hiện cuộc cách mạng thơ ca thì e rằng vận mệnh thơ ca sẽ tuyệt…và lúc này chính là thời điểm chín muồi cho việc cải cách.” Không chỉ nêu cao ngọn cờ “cách mạng thi giới” (thi giới cách mạng), Lương Khải Siêu còn nêu rõ ba tiêu chuẩn mà thơ ca Trung Quốc cần đạt tới ở thế kỷ XX. Đó là, thơ cần mang ý cảnh mới (tân ý cảnh), ý cảnh mới ấy phải được diễn đạt bằng những danh từ, thuật ngữ mới (tân ngữ cú), và điều quan trọng không kém là, quyết không được rời bỏ phong cách thơ của người xưa (dĩ cổ nhân chi phong cách nhập chi).” Cái gọi “ý cảnh mới” theo Lương Khải Siêu chính là sự cao viễn thâm trầm của lý tưởng (“lý tưởng chi thâm thuý hoành viễn”) được thi nhân biểu đạt trong thơ; những danh từ, thuật ngữ mới chính là những danh từ, thuật ngữ có nguồn gốc Âu châu, ở đây chúng sẽ đóng vai trò tạo ra tính mới mẻ trong thơ; việc chủ trương kế thừa phong cách thơ ca truyền thống chứng tỏ Lương Khải Siêu chỉ chú trọng cải cách về mặt tinh thần, tức nội dung của tác phẩm, chứ chưa đặt nặng vấn đề cải cách hình thức. Chủ trương cải cách thơ ca của Lương Khải Siêu rõ ràng có phần giống chủ trương “độc tích tân giới nhi uyên hàm cổ thanh” (mở ra thế giới thơ mới nhưng vẫn hàm dưỡng phong cách truyền thống) mà Tiền Huyền Đồng đã nêu ra trước đó, hơn nữa những quan điểm của Lương Khải Siêu được nêu ra với tư cách một nhà phê bình, chứ chưa phải với tư cách một nhà thơ, thế nên, mớ lý thuyết này thực sự còn tồn tại rất nhiều bất cập.

Theo quan niệm của văn hóa phương Tây, khái niệm không gian thường được hiểu là một khối vuông rỗng, một kết cấu hình học, hoặc một vật chứa luôn tách rời hình thái tồn tại cụ thể của vật chất. Aristote từng nêu ra thuyết hạn diện (thuyết hạn chế về bề mặt), đồng thời cho rằng bản thân sự hạn diện chính là không gian. Theo ông, cái gọi hạn diện này luôn trùng khít lên bề mặt của sự vật, được xem là hạn diện nội tại, luôn tĩnh lặng và gắn liền với bề mặt của vật chất trong vũ trụ(1). Hegel cũng chỉ ra rằng, khái niệm không gian được xác định trên phương diện khách quan chính là “sự thống nhất giữa tính gián đoạn và tính liên tục(2)”. Bỏ qua những định nghĩa giàu chất tư biện trên đây, có thể tóm lại rằng, không gian trong quan niệm của người phương Tây luôn là thứ không gian hữu hạn, không gian hình khối, hạn chế trong một bề mặt cụ thể, và luôn có xu hướng cơ khí hóa, kết cấu hóa.

LÊ QUANG TRƯỜNG (*)

Ngải Thanh tên thật là Tưởng Hải Trừng (sinh ngày 27-3-1910, mất ngày 5-5-1996) sinh ra trong một gia đình địa chủ họ Tưởng, tại làng Kim Hoa, huyện Tưởng, tỉnh Chiết Giang. Ông là một trong những nhà thơ mới Trung Quốc có ảnh hưởng lớn đến các nhà thơ mới ở thời kỳ sau.

Ngày 11 tháng 9 năm 1956, một ngày hội tôn vinh thơ ca được tổ chức tưng bừng ở thủ đô Moskva, điều chưa từng có trước đó trong thơ ca Nga, kể cả trong những thời kỳ hưng thịnh của nó (các thời đại vàng đầu thế kỷ XIX, hay bạc đầu thế kỷ XX). “Ngày thơ” trở thành lễ hội định kỳ diễn ra hàng năm ở Liên Xô, và nay là ở nhiều nơi trên thế giới, là dịp để các nhà thơ tiếp xúc với đông đảo công chúng độc giả. Từ những hoạt động thơ ca mang tính đại chúng này, một khuynh hướng thơ ca xuất hiện với tên gọi “thơ ca tạp hý” (poezia estrada).

Hoàng Thị Xuân Vinh (*)
 

Dịch giả Phong Vũ trong lời giới thiệu “Một đôi nét về Akutagawa và truyện ngắn của ông”, đã nhận định: “Ông sống vào một thời kỳ phức tạp của Nhật Bản khi những cái cũ bị phá vỡ, những khái niệm mới, những trào lưu tư tưởng mới đang được sinh ra” [3, 344].

Nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch Nga  Aleksandr Sergeevich Puskin (1799-1837) là người đặt nền móng cho văn học hiện thực Nga thế kỷ 19.  Pushkin đi từ lãng mạn “Người tù Kapkazơ” đến chủ nghĩa hiện thực: nhân vật con người thừa trong tiểu thuyết-thơ “Epghêni Ônêghin”; vấn đề cá nhân và nhà nước trong “Kỵ sĩ đồng”; số phận con người nhỏ bé trong “Tập truyện của Benkin”;  quyền lực của đồng tiền trong “Con đầm pích”; khởi nghĩa nông dân trong “Con gái viên đại úy”.

                                                                                                             Nguyễn Thị Mai Liên(*)

      Trong những năm  cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, do sự tiếp xúc với các nước phương Tây nên tại các nước châu Á đã diễn ra quá trình tiếp nhận văn hoá phương Tây. Quá trình này tác động đến văn hoá, văn học châu Á vô cùng sâu sắc. Một mặt, văn minh phương Tây đã làm thay đổi không ít những giá trị văn hoá truyền thống ngàn đời ở các nước phương Đông. W.Durant, sử gia người Mỹ gốc Pháp cho rằng sự tiếp xúc với người Âu đã thay đổi một truyền thống tốt đẹp trong văn học Ấn Độ là truyền thống thơ ca, là “tâm hồn thi sĩ thiên phú” của người Ấn. Ông viết: “Văn xuôi mới xuất hiện ở Ấn hồi gần đây và ta có thể nói rằng nó là hậu quả một tác động bại hoại do tiếp xúc với người Âu”1. Ở Nhật Bản, nuối tiếc cho cái đẹp truyền thống đang bị mai một trước sức tấn công của văn minh phương Tây, văn hào Y.Kawabata đã làm “người lữ khách muôn đời đi tìm cái đẹp” (M.Yoko), “cứu rỗi cái đẹp” (Nhật Chiêu), nâng niu và phát huy giá trị của những cái đẹp truyền thống trong thời đại mới. Tại Việt Nam, các nhà thơ sống ở buổi giao thời cũng tiếc nuối, bâng khuâng tự hỏi: “Những người muôn năm cũ/Hồn ở đâu bây giờ?”. Tuy nhiên, công cuộc tiếp thu văn hoá này cũng đem lại cho văn hoá, văn học các nước châu Á một diện mạo mới hiện đại, trẻ trung, năng động. Là một nước thuộc khu vực Đông Bắc Á, Nhật Bản cũng trải qua quá trình giao lưu, tiếp xúc với văn học phương Tây. Tuy nhiên, nếu các nước như Ấn Độ, Việt Nam và khu vực Đông Nam Á tiếp xúc một cách cưỡng ép thì Nhật Bản lại chủ động mở cửa đón luồng gió phương Tây như họ đã từng làm thời cổ đại khi mở cửa đón nhận văn hoá Trung Hoa. Trong lĩnh vực văn học, Nhật Bản đã tiếp thu thành công các thể loại, đề tài, nội dung, hình thức mới từ văn học phương Tây. Riêng ở thể loại tiểu thuyết, nhiều trường phái bắt đầu xuất hiện từ thời Meiji như tiểu thuyết cổ điển, lãng mạn, hiện thực, tự nhiên... và phát triển đến cực thịnh, trong đó đặc biệt phải kể đến những thành tựu của tiểu thuyết lãng mạn.

 

Miguel Ángel Asturias (1899-1974) là nhà tiểu thuyết, kịch tác gia, nhà thơ, dịch giả, và nhà ngoại giao người Guatemala, đã giành được Giải Hòa bình Lenin (1966) và Nobel Văn chương (1967).

Nói đến thơ ca Nhật Bản, người ta nghĩ ngay đến Matsuo Basho (Mat-su-ô Ba-sô/ Tùng Vĩ Ba Tiêu, nhà thơ lớn nhất mọi thời của xứ sở Phù Tang, người đã đưa thể thơ haiku (hai-kư) lên đến đỉnh cao...Ở Việt Nam tên tuồi Basho đã được nhiều người biết đến, nhưng người ta thường nghĩ về ông như một Thiền sư và tuy có biết thơ haiku của ông là có giá trị,, nhưng đại đa số đều cho là rất khó hiểu và xa lạ. Đồng thời do vấn đề chuyển ngữ mà nhiều bài dịch thơ của ông đã trở nên ngô nghê hoặc bí hiểm như một công án. Tuy nhiên tìm hiểu kĩ về ông chúng ta thấy, Basho là một nhà thơ phương Đông, một nhà thơ gắn liền với thời đại mà ông sống, vì thế nếu nhìn từ văn học Việt Nam thì thấy hồn thơ của ông cũng rất gần gũi với những nhà thơ lớn của chúng ta, nhất là với Nguyễn Trãi và Nguyễn Du. Ngược lại nhìn Nguyễn Trãi, Nguyễn Du qua cái nhìn đối sánh với Basho chúng ta cũng phát hiện ra nhiều điểm mới lạ.

                                                                                                 Phong Lê (*)

Hiện đại hóa, trong cách hiểu ở Việt Nam và các nước thuộc phương Đông, gồm cả Đông Á, Nam Á, Đông Nam Á, và rộng hơn thế, đó là sự kiện có tính quy luật diễn ra trong giao lưu, và định vị các mối quan hệ với phương Tây, có trung tâm là châu Âu - nơi giai cấp tư sản có quá trình hình thành từ rất sớm, và sớm tiến hành cuộc cách mạng tư sản, từ nửa sau thế kỷ XVIII, đưa nhân loại vào một thời kỳ phát triển mới - thời đại của cách mạng tư sản và chủ nghĩa tư bản. Từ các cuộc cách mạng tư sản này nhân loại sẽ bước vào một thời đại mới, thời giai cấp tư sản buộc “các dân tộc nông dân phụ thuộc vào các dân tộc tư sản; buộc phương Đông phụ thuộc vào phương Tây”. Thời, giai cấp tư sản “buộc tất cả các dân tộc phải theo phương thức sản xuất tư sản, nếu không sẽ bị tiêu diệt; buộc tất cả các dân tộc phải du nhập cái gọi là văn minh, nghĩa là phải trở thành tư sản. Tóm lại, nó tạo ra cho mình một thế giới theo hình ảnh của nó” - như cách nói của Mác trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản.

 

Phật giáo từ Ấn Độ truyền vào Việt Nam từ rất sớm có thể từ trước công nguyên. Tuy là một tôn giáo ngoại nhập nhưng các nhà nghiên cứu thường thống nhất rằng mỗi dân tộc đều có một ông Phật của riêng mình. Vậy thì cái riêng, bản sắc Phật giáo Việt Nam là gì ?. Các nhà nghiên cứu đã thừa nhận Phật giáo thời Lý - Trần là tinh hoa, đỉnh cao của Phật giáo Việt Nam và văn hóa Việt Nam. Chính Phật giáo Lý - Trần đã góp phần làm nên cái chất Đại Việt, làm nên cái hào khí Đông A của thời đại, tạo nên bước nhảy vọt về tư tưởng của dân tộc ta lúc bấy giờ, làm nên sự hồi sinh mạnh mẽ của dân tộc sau hơn một ngàn năm bị nô lệ phương Bắc từ năm 111 TCN đến năm 938 SCN. Để góp phần giải đáp cái nét riêng của văn hóa Phật giáo Việt Nam, đặc biệt là Phật giáo thời Lý Trần có lẽ cần đặt nó trong mối giao lưu - tiếp biến với Phật giáo Ấn Độ, Phật giáo Trung Quốc và tín ngưỡng - văn hóa dân gian bản địa.

   Nguyễn Thị Hiền (*)

1. Lời mở

 Lịch sử hiện đại Việt Nam và bán đảo Triều Tiên có một lịch sử tương đồng. Sau 30 năm kể từ khi bắt đầu nổ súng xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp mới nắm được quyền thống trị lãnh thổ Việt Nam, biến Việt Nam thành một nước nửa thực dân nửa phong kiến. Còn Chosun, một đất nước ẩn dật phương Đông, đã phải rộng cửa giao thương trước sự thúc ép của phương Tây vào năm 1876. Mặt khác, liên tục bị nước láng giềng Nhật Bản dòm ngó, sau hiệp định sáp nhập ký kết năm 1910, bán đảo Triều Tiên (sau đây xin được dùng từ ‘Hàn Quốc’ để thay thế) chính thức trở thành thuộc địa của Nhật.

 Những nhà du lịch chuyên nghiệp cũng như những nhà văn, nhà thơ xuất sắc đều là những nhà khám phá vĩ đại. Họ thích đào sâu vào những vùng đất lạ lẫm, xa xăm, những cánh rừng hoang dã, những con người, xã hội để khám phá ra bí ẩn của chúng. Họ sở hữu kho vô tận sự hiếu kỳ và bí mật. Họ sẽ sử dụng kinh nghiệm, con mắt chuyên nghiệp để quan sát những phong tục và văn hóa của loài người. Là chứng nhân của thiên nhiên và những phong cách sống, họ sẽ sử dụng những quan sát đó để phản ánh những thiếu sót, khiếm khuyết của xã hội mà họ đang sống.

Thông tin truy cập

61750596
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
9718
20496
61750596

Thành viên trực tuyến

Đang có 1358 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website