Derzhavin sinh năm 1743 trong một gia đình quý tộc Nga gốc Tatar ở vùng Kazan, cha mẹ nghèo gia sản nhưng là những người tử tế, hiền lành. Nếu như tin theo “Bút ký về những biến cố và những sự việc nổi bật có thực diễn ra trong cuộc đời của Gavrila Romanovich Derzhavin” – tác phẩm hồi ký của chính nhà thơ viết vào năm 1812 – thì từ đầu tiên trong đời mà nhà thơ tương lai cất lên (khi lên một tuổi) là từ “Bog” (Chúa).
Thuở nhỏ, Derzhavin là đứa trẻ thông tuệ, bốn tuổi đã biết đọc tiếng Nga và tiếng Slav cổ. Những người thầy dạy đầu tiên của nhà thơ là những con người bình dân: cậu bé Derzhavin học tiếng Đức và học vẽ ở ông thầy Iosif Rose - một người tù khổ sai gốc Đức, học toán và các môn khoa học từ anh lính đồn biên Lebedev và chàng học sinh võ quan Poletaev…- những người mà chính bản thân cũng không nắm vững điều họ được giao giảng dạy cho cậu học trò. Năm 1754 Derzhavin vào học ở trường trung học Kazan, được xếp vào hàng những học sinh xuất sắc nhất, đặc biệt thể hiện năng lực ở hội họa, âm nhạc và thơ ca. Do thành tích học tập, cậu bé còn được giám đốc nhà trường cho tham gia vào chuyến khai quật khảo cổ thành phố cổ Bolgar của người Tatar. Ấn tượng trước cung điện xưa của các khan Tatar và những di vật còn lại, Derzhavin vừa vẽ, vừa ghi chép, mô tả lại tất cả – đó có thể xem là kinh nghiệm văn chương đầu tiên của nhà thơ tương lai. Tuy học xuất sắc nhưng Derzhavin không học hết trung học do bị gọi vào quân đội, không phải để làm sĩ quan (như thông thường đối với các quý tộc), mà làm một anh binh nhì tầm thường nhất. Có thể nói tuổi thơ và tuổi trẻ của Derzhavin đã phải trải qua một cuộc sống đầy khó khăn vất vả, “trong học viện của nghèo đói và gian khó, tôi đã học tập và tự giáo dục mình” – nhà thơ sau này đã viết như thế.
Derzhavin phục vụ trong trung đoàn kỵ binh Preobrazhenskoe, ngủ trong lán trại, viết hộ những người lính bình dân không biết chữ những bức thư gửi về nhà với lời lẽ, giọng văn độc đáo đầy chất lính. Những bài thơ đầu tiên của Derzhavin là những bài thơ không tuân theo một quy tắc trật tự nào cả, chúng rất được phổ biến trong quân ngũ, được truyền qua nhiều thế hệ ở các trung đoàn kỵ binh. Mười năm sau khi tham gia quân ngũ, khi đã trở thành sĩ quan, Derzhavin làm một bước ngoặt lớn trên con đường công danh: tự nguyện tham gia vào chiến dịch đàn áp cuộc khởi nghĩa nông dân Pugatchev. Sau đó, ông tham gia vào Viện Nguyên lão, trở thành tỉnh trưởng, thành thư ký riêng cho nữ hoàng Ekaterina II, dưới triều Pavel giữ nhiều chức vụ trong Viện Nguyên lão, và cuối cùng trở thành bộ trưởng Bộ Tư pháp thời Alexandr I. Năm 1803, ông bất ngờ, và cũng tự nguyện, rời bỏ mọi chức vụ… Nhà thơ đến lúc này đã chắc chắn xác định rằng sự nghiệp chính của cuộc đời mình là sáng tác thơ ca. Ông qua đời năm 1816 ở tuổi 73.
Sáng tác của Derzhavin vắt qua hai thế kỷ: XVIII và XIX. Vào thế kỷ XIX, Belinsky từng viết: “Mọi người đều ngợi ca ông, nhưng đồng thời chẳng ai đọc ông cả”[1] Điều mâu thuẫn mà Belinsky nói ở đây chính là tính chất chuyển giao giữa hai thời đại ở nơi nhà thơ lớn này.
Trước hết, Derzhavin là “tập đại thành” của thơ ca cổ điển Nga thế kỷ XVIII. Khi Derzhavin bước vào văn chương, những năm 60-70 của thế kỷ đang diễn ra cuộc đấu tranh giữa hai truyền thống thơ ca: truyền thống Lomonosov chú trọng thể loại tụng ca cung đình, mang tính trang trọng, sách vở, bác học (văn chương bậc cao theo thứ bậc của chủ nghĩa cổ điển thế kỷ XVIII), và truyền thống Sumarokov chống lại sự hoa mỹ, bóng bảy của các thể loại bậc cao và chú trọng phát triển những thể loại thơ trữ tình (thơ tình yêu, bi ca) và thơ châm biếm (ngụ ngôn, epigram). Nhà thơ trẻ Derzhavin tiếp thu một cả hai truyền thống theo cách độc đáo riêng biệt, vận dụng cả hai để rồi từ đó tạo nên một sự tổng hợp đặc biệt. Vốn xuất thân nghèo khó và trải qua nhiều gian khổ trong những bước lập nghiệp đầu đời, sáng tác của Derzhavin giai đoạn đầu (những năm 60-70) thể hiện sự gần gũi với thơ ca dân gian, và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của phong cách thơ ca Sumarokov. Ông viết những bài thơ tình yêu “kiểu Anacreon”, đồng thời cả những bài ngụ ngôn thông tục mang không khí của những lán trại quân đội, những tửu quán, những sòng bài. Nhưng dần về sau, con đường công danh hướng tới tầng lớp tầng lưu khiến nhà thơ cũng tách khỏi truyền thống “giải kinh điển” (declassing) của Sumarokov, và quan tâm đến thể loại “bậc cao” của chủ nghĩa cổ điển là tụng ca và tuân theo mô hình kết cấu tụng ca của trường phái Lomonosov. Tuy nhiên, Derzhavin không bằng lòng với thi pháp của Lomonosov. Các bài tụng ca của Lomonosov (một người tuy nhận được sự bảo trợ, nhưng không phải là cận thần của triều đình) thường được làm theo đơn đặt hàng của giới quý tộc triều đình (không phải là người gần gũi với nhà thơ), bởi vậy mang tính khen tụng chung chung, trừu tượng. Derzhavin, trái lại, là một triều thần, trực tiếp chứng kiến (hay tham dự) vào cuộc sống của triều đình. Cuộc sống của hoàng gia, của các đại thần đối với nhà thơ không phải là đỉnh núi Olympia của những vị thần, mà là một hiện thực, một vũ đài của hoạt động trần thế của các cá nhân với đầy những hấp lực mà cũng đầy xung đột, với nhiều bè bạn mà cũng lắm kẻ thù – có người đáng ngợi ca nhưng cũng có kẻ chỉ để cười nhạo. Bởi vậy, bức tranh trong tụng ca của Derzhavin không còn chỉ đơn điệu một màu uy nghiêm như ở Lomonosov, mà đủ các sắc thái của cuộc sống cụ thể, sinh động, giọng điệu của tụng ca có lúc trang trọng mà cũng nhiều lúc hài hước châm biếm. Lý thuyết “ba phong cách” của Lomonosov đến Derzhavin đã bắt đầu bị phá vỡ.
Một ví dụ về sự “phá vỡ” truyền thống Lomonosov là tác phẩm tụng ca viết năm 1779 nhân sự kiện hoàng tử Alexandr (tức hoàng đế Alexandr I sau này) ra đời: ban đầu Derzhavin ca ngợi sự kiện này dưới hình thức một tụng ca “phong cách Lomonosov”, nhưng sau đó, như chính ông thừa nhận, thấy không thích hợp với khả năng (và tài năng) của mình, nên đã sửa thành một bài ca nhẹ nhàng theo kiểu Anacreon. Trong “Bút ký về những biến cố…”, Derzhavin đã đánh dấu năm 1779 như một mốc quan trọng: “Ông (trong tác phẩm này, Derzhavin nói về mình ở ngôi thứ ba) cố gắng bắt chước theo ngài Lomonosov trong cách thể hiện và trong phong cách… nhưng mặc dù hăng hái, vẫn không thể dùng được những từ ngữ mỹ miều hào nhoáng vốn là của riêng Pidar của nước Nga (tức Lomonosov). Bởi thế từ 1799, ông chọn con đường hoàn toàn khác”.
“Con đường hoàn toàn khác” đó về sau còn được Derzhavin nói rõ hơn trong bài thơ “Đài kỷ niệm” (một hình mẫu cho bài thơ cùng tên của A.S.Pushkin ở thế kỷ XIX):
… Tôi, người đầu tiên dám dùng tiếng Nga bỡn cợt
Để ngợi ca những phẩm hạnh của Felitsa
Với Chúa dám chuyện trò bằng lời chân thành nhất
Khóe cười trên môi, bàn về chân lý với các vua
(Đài kỷ niệm, 1795)
Có thể thấy trong ý thức nghệ thuật của nhà thơ, với tinh thần của chủ nghĩa cổ điển, vai trò và thiên chức của nhà thơ là rất cao cả: đó là con người hướng tới quốc gia đại sự (Felitsa là biểu tượng của nền quân chủ trên đất Nga), hướng tới đức tin Thiên Chúa, hướng tới chân lý. Tuy nhiên, con đường nghệ thuật của ông thì rất đặc biệt và táo bạo.
Tác phẩm quan trọng thể hiện rõ ràng điều đó là “Felitsa”. Bài tụng ca lần đầu tiên xuất hiện trong “Người đối thoại của những người yêu tiếng Nga” năm 1783, không ký tên tác giả, với nhan đề “Tụng ca dâng Nữ hoàng xứ Kirgis-Kaisatsky Felitsa, được viết bởi một murza người Tatar từng đến thăm Moskva, vì công cán đang sống ở St.Petersburg. Được dịch từ tiếng Arập năm 1782”. Người biên tập chú thích cho những dòng cuối: “Mặc dù tên tác giả chúng tôi cũng chưa biết, nhưng chúng tôi biết rằng bài tụng ca này được viết bằng tiếng Nga” (Trích theo bản năm 1808, tập 1, tr.36). Nguyên tắc mô phỏng khuôn mẫu của chủ nghĩa cổ điển ở đây đã được biến hóa: Derzhavin không xuất hiện như người sáng tác, mà đóng vai trò của một dịch giả (sau này, những nhà thơ như Pushkin, Lermontov cũng thường đóng vai trò của người biên tập, người xuất bản chứ không phải là tác giả). “Khuôn mẫu” như vậy chỉ là cái vỏ ngụy tạo, cho ra vẻ đúng phép tắc cổ điển. Đúng hơn đây là một sự kín đáo giễu nhại cổ điển (khác với những trường hợp Trediakovsky dịch “Chuyến du hành đến đảo tình yêu” Paul Tallement và “Telemachus” của François Fénelon, hay Sumarokov dịch “Nghệ thuật thi ca” của Boileau). Lời chú thích của người biên tập được đưa vào càng khẳng định điều đó. “Felitsa” được “mượn” từ một huyền thoại. Trong thi pháp của chủ nghĩa cổ điển, các nhân vật huyền thoại luôn có ý nghĩa phúng dụ nhất định nào đó, đồng thời gắn với những “điển tích” thời cổ đại Hy Lạp – La Mã. “Felitsa” của Derzhavin cũng mang ý nghĩa phúng dụ, cũng gắn với “điển tích”, nhưng không phải cổ đại mà là đương đại: đó là “Truyện cổ tích về hòang từ Khlor” do nữ hoàng Ekaterina II viết cho cháu nội Alexandr (sau là hoàng đế Alexandr I) năm 1781. “Tác giả gọi mình là murza vì ,… ông vốn xuất thân từ một bộ lạc người Tatar, còn gọi nữ hoàng là Felitsa và hoàng hậu Kirgiziya bởi nữ hoàng đã viết truyện cổ tích dưới tên của hoàng tử Khlor, người mà Felitsa – tức nữ thần hạnh phúc, đã hộ tống lên núi, nơi có hoa hồng không gai nở, và bởi tác giả có các điền trang ở tỉnh Orenburg kề bên vương quốc của người Kirgiziya không thuộc đế quốc Nga”[2]. Tên Felitsa cũng được nữ hoàng Ekaterina tạo ra từ tiếng Latin “felix”, “felicitas” nghĩa là hạnh phúc.
Những gì do chính Derzhavin giải thích về sau trong “Bút ký về những biến cố…”cho thấy ý thức đổi mới, vượt rào quy phạm cổ điển của nhà thơ. Huyền thoại và hiện thực đan xen, những mối quan hệ “logic” dường như bị phá vỡ, nhưng đồng thời vì thế mà ý nghĩa gợi liên tưởng, gợi cảm xúc của những tên gọi, những nhân vật “huyền thọai” như Felitsa và murza lại được mở rộng. Hình tượng nghệ thuật trở nên đa nghĩa nhưng đồng thời cũng cụ thể hơn.
“Felitsa” viết về nữ hoàng Ekaterina II, với mô hình một tác phẩm ca tụng như truyền thống Lomonosov. Tuy nhiên, cái đặc sắc của “Felitsa” là ở chỗ nó kết hợp vừa yếu tố ca tụng, vừa những luận bàn gay gắt những vấn đề chính trị-xã hội.
Hình tượng vị quân vương được lý giải một cách mới mẻ: thay cho hình tượng trang trọng (nhưng nặng nề) của “nữ thần của trần gian”, nhà thơ mô tả nữ hoàng Nga như một người cai trị, nhưng cũng đồng thời như một cá nhân. Derzhavin cố hé mở thế giới nội tâm nữ nhân vật của tụng ca, những nếp sống, thói quen của bà, nhấn mạnh những đặc điểm như tinh thần dân chủ, sự giản dị, khiêm tốn, ân cần kết hợp với một trí tuệ và tài năng kiệt xuất của một vị đứng đầu nhà nước. Đối lập với Felitsa – tức Ekaterina II – với đức hạnh cao quý là các quan lại triều thần (nhà thơ dùng các khái niệm murzi, pashi – các chức quan của Hồi giáo để gọi họ), chân dung của bọn triều thần được miêu tả bằng những sắc màu châm biếm sâu sắc.
Vị trí của nhà thơ trong mối quan hệ với đối tượng được ca tụng cũng đặc biệt. Khác với Lomonosov trong các tụng ca của mình đứng ở vai trò “thần dân nô lệ” nên hết sức khiêm nhường, cung kính, “kính nhi viễn chi”, Derzhavin tuy cũng giữ thái độ thần phục nhưng đồng thời lại có vẻ bỡn cợt như những người thân ngang hàng. Những từ ngữ khoa trương, sách vở vốn đặc trưng cho thể lọai bậc cao là tụng ca được thay thế bằng những từ ngữ hài hước, nhẹ nhàng, gần với khẩu ngữ Nga.
“Felitsa” đã mang lại cho tác giả của nó một vinh quang bất ngờ. Nữ hoàng Ekaterina II tỏ ra rất thích thú với bài thơ, ban tặng cho Derzhavin một hộp đựng thuốc lá bằng vàng và 500 đồng vàng (chính nhà thơ kể rằng nữ hoàng tặng ông một cách kín đáo, tránh không cho những triều thần mà ông chế giễu trong tác phẩm biết). “Felitsa” còn gắn với việc xuất bản một tạp chí văn học- chính luận có tên “Người đối thoại của những người yêu tiếng Nga” của một nhóm người thân cận của Ekaterina (và bản thân nữ hoàng cũng tham gia). Tờ tạp chí đặt ra nhiệm vụ hỗ trợ cho sự phát triển và cho những thành tựu mới của tiếng Nga và văn học. Số đầu tiên của tờ tạp chí này mở ra với tác phẩm “Felitsa” – đó cũng là một tuyên ngôn cho một khuynh hướng văn học mới của Nga.
Ca tụng nữ hoàng Ekaterina là một chủ đề chính trong thơ Derzhavin, bởi vậy các nhà phê bình về sau thường gọi ông là “ca nhân của Felitsa”. Bên cạnh đó, chủ đề phê phán giới quý tộc triều đình cũng hết sức quan trọng đối với nhà thơ. Thực ra đối với giới quý tộc triều đình, Derzhavin có hai thái độ: với những người thuộc hàng “quý tộc thượng lưu mới” (tức xuất thân từ tầng lớp dưới, nhưng bằng năng lực, bằng những công trạng, cống hiến của bản thân mà vươn lên tầng lớp trên – như chính bản thân nhà thơ), Derzhavin có thể chế giễu một cách không ác ý những tật xấu như lười biếng, thích hưởng thụ, thích xa hoa…, nhưng cũng không quên ca tụng những công trạng của họ; trái lại, nhà thơ đặc biệt ác cảm với những triều thần “dòng dõi” – những kẻ có được các vị trí cao trong triều đình không phải do tài năng, công trạng, mà do thân thế, sự châm biếm phê phán của nhà thơ ở trường hợp này thường hết sức gay gắt, chua cay (chẳng hạn như trong bài “Quan đại thần”, ông đã ví những kẻ đó như con lừa: “vẫn là lừa dẫu được gắn đầy sao”). Pushkin sau này gọi Derzhavin là “cái roi quất vào các đại thần” (bich velmozh).
Bài thơ tiêu biểu cho chủ đề phê phán giới quý tộc thượng lưu là “Gửi các nhà cầm quyền và các quan tòa”. Bài thơ này được viết dưới dạng của tụng ca- thánh vịnh (ode-psalm). Sở dĩ có cách gọi như vậy là bởi sự kết hợp giữa thơ ca châm biếm với thể loại ode tôn giáo, các bài thơ là sự cải biên từ những bài thánh vịnh trong Kinh Thánh. Nhà thơ, đóng vai trò như nhà tiên tri trong Cựu Ước Kinh, kêu gọi sấm sét của đấng tối cao trừng trị những kẻ tham tàn bạo ngược ở trần gian. Chúa Trời họp với các chúa trần gian, tổng kết công việc cai trị mà Người giao cho họ:
Nhiệm vụ của các người là giữ gìn luật lệ
Những kẻ mạnh đừng cố lấy lòng
Đừng để trẻ mồ côi và phụ nữ góa chồng
Không người chăm nom, không người bảo vệ.
Nhiệm vụ của các người: cứu người vô tội
Cho người bất hạnh chốn nương thân;
Giải phóng người nghèo khỏi gông cùm
Bảo vệ kẻ yếu khỏi tay cường bạo.
Thế nhưng:
Chúng chẳng nghe! Thấy mà chẳng hiểu!
Của hối lộ che lấp cả nhãn quan
Chuyện gian phi đầy ắp thế gian
Điều bất công thấu lên trời thẳm!
Nhà thơ có những câu hết sức táo bạo liên quan đến các Nga hoàng, và cũng là những câu thơ thể hiện sự bất bình, thất vọng sâu sắc nhất nơi “ca nhân của Felitsa”:
Những tưởng các người là thần linh tối thượng
Không thể phán xử, hỡi các Sa hoàng
Hóa ra cũng như tôi, các người đầy lòng tham
Giống như tôi, các người rồi cũng chết.
Các người rồi cũng nằm xuống đất
Như lá khô rụng khỏi những cội cây
Các người sẽ chết giống vậy thôi
Như cái chết của tên nô lệ cuối.
Và chỗ dựa cuối cùng, niềm hi vọng cuối cùng của nhà thơ chỉ còn nơi Chúa:
Hỡi Chúa của công bằng, xin đứng dậy
Lời chúng nguyện cầu hãy lắng nghe;
Hãy tới phán xử, trừng trị kẻ xấu xa
Và hãy làm Vua duy nhất trên trần thế.
Derzhavin viết bài thơ này trong thời gian nhiều năm. Khi nó được hoàn tất, hai lần kiểm duyệt cấm xuất bản. Và khi nó được xuất bản, thì nữ hoàng Ekaterina nổi giận, buộc tội nhà thơ đã viết “thơ theo chủ nghĩa Jacobin” (lời buộc tội này còn được Ekaterina lặp lại khi nói đến tụng ca “Về việc đánh chiếm Varsaw” – tác phẩm bị chính nữ hoàng cấm phát hành). Chủ nghĩa Jacobin (Jacobinism) ở đây thực ra không phải sự ảnh hưởng của phong trào cách mạng Pháp, mà xuất phát từ chính cuộc đấu tranh nội bộ giai cấp của một người xuất thân từ tầng lớp dưới chống lại giới quý tộc thượng lưu của triều đình Nga hoàng. Nhà thơ cung đình Derzhavin là người đầu tiên trong văn học Nga cất lên tiếng thơ mang tinh thần công dân, điều mà mấy thập niên sau, các nhà thơ lãng mạn của phong trào Tháng Chạp sẽ hòa giọng, tạo thành một “khuynh hướng thơ công dân” thế kỷ XIX.
Nữ hoàng Ekaterina II trước cuộc đấu tranh giữa các tầng lớp quý tộc đương thời (mà một phần được phản ánh trong cuộc đấu tranh của Derzhavin với giới triều thần “danh gia vọng tộc”), và trong quan hệ với bản thân Derzhavin, có thái độ không thật rõ ràng, có tính nước đôi (nhưng có lẽ nghiêng về giới triều thần hơn). Derzhavin viết trong “Bút ký…” của mình: “Phải công bằng mà thừa nhận, rằng bà không ngừng bảo trợ ông khi ông bị các kẻ thù có thế lực xua đuổi, không cho phép họ tiêu diệt ông; tuy nhiên, bà cũng không công khai lên tiếng bênh vực ông cũng như tỏ sự tin tưởng đặc biệt nào, điều mà bà từng làm với những người khác”. Điều này ảnh hưởng đến số phận của hình tượng nữ hoàng, như đã nói là một trong những hình tượng nghệ thuật trung tâm, trong sáng tác về sau của Derzhavin. Hình tượng vị nữ vương “tựa như thánh thần” dần dần được giản lược, trần thế hóa, nhân hình hóa trong những bài thơ hài hước, và cuối cùng gần như bị hạ bệ. Bản thân nhà thơ, mặc dù vẫn được nữ hoàng khuyến khích, không thể tiếp tục viết những tụng ca theo tinh thần “Felitsa” được nữa. “Mấy lần ông ngồi nhà cả tuần để viết, mà không thể viết được gì cả - nhà thơ kể trong “Bút ký…” – không thể thổi lên ngọn lửa tinh thần để giữ được lý tưởng cao cả trước kia của mình đứng vững, khi xung quanh mình chỉ nhìn thấy con người trần trụi với những khiếm khuyết to lớn”. Hình tượng Ekaterina nhỏ bé dần, và cuối cùng rời bỏ thơ Derzhavin, nhưng thay vào đó, lại xuất hiện hình tượng những nhà lãnh đạo cầm quân tài ba của thời đại như Nikolai Repnin (“Đài tưởng niệm anh hùng”, 1791), Rumyantsev (trong các tụng ca “Về trận đánh chiếm Izmail”, “Về các chiến công ở Italia”, “Khúc quân hành trên đỉnh núi Alpes”), và đặc biệt người anh hùng nổi tiếng Alexandre Suvorov, người mà Derzhavin gọi là “chàng Hercules của Nga”
Chàng Hercules của Nga
Nơi nào có chàng chiến đấu
Nơi đó là chàng chiến thắng
Kỳ tích đầy ắp đời chàng
Suvorov là tổng chỉ huy quân đội Ngadưới triều đại Ekaterina II, nhờ tài cầm quân của ông, người Nga đã giành được những chiến thắng lịch sử trong chiến tranh Nga – Thổ, trong cuộc chiến chinh phục Ba Lan. Ông cũng là người chỉ huy quân đội Nga hoàng đàn áp phong trào nông dân Pugatchev. Giữa Derzhavin và Suvorov là một tình bạn khá đặc biệt, trong sáng, bởi Derzhavin là nhà thơ từng làm lính và Suvorov là một vị tướng từng làm thơ (không chỉ Derzhavin viết thơ về Suvorov, mà ngược lại, Suvorov cũng viết thơ về Derzhavin); hai người biết nhau từ khi Derzhavin còn là trung úy phục vụ trong quân đoàn của Suvorov, điền trang của hai người nằm cạnh nhau, số phận hai người có nhiều nét tương đồng: đều vươn lên trên con đường công danh bằng chính sức lực và tài năng của mình, và chỉ đạt đến vinh quang lúc tuổi đã bốn mươi – có thể xem là “cao tuổi” vào thời bấy giờ; cả hai trong lãnh địa của mình đều được tôn vinh như những bậc trưởng lão vĩ đại (cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX, danh hiệu “ông già” – starik – được dùng để gọi Derzhavin trong thơ ca và Suvorov trong quân sự). Sự gần gũi đó khiến cho thơ ca ngợi anh hùng của Derzhavin không chỉ rền vang tiếng kèn xung trận và chiến thắng (“Sấm chiến thắng hãy vang lên, Hãy vui lên hỡi nước Nga quả cảm” – đó là hai câu thơ trong bài thơ ca ngợi chiến công của Suvorov và quân đội Nga trong chiến tranh Nga – Thổ sau được phổ nhạc và trở thành quốc ca không chính thức của Nga cuối thế kỷ XVIII- đầu thế kỷ XIX), mà còn trầm lắng những cảm xúc trữ tình, và cả những giai điệu hài hước, hóm hỉnh. Còn truyền lại một giai thoại về Derzhavin và Suvorov như sau: Lúc Suvorov ốm nặng sắp mất, Derzhavin đến thăm bạn. Vị tướng hỏi nhà thơ: “Anh sẽ viết văn bia cho tôi như thế nào?”. “Tôi nghĩ rằng chẳng cần nhiều lời. – nhà thơ đáp – Chỉ cần nói thế này là đủ: Suvorov nằm ở nơi đây”. Suvorov thốt lên: “Ôi Chúa ơi, thật tuyệt sao!”.[3]
Tấm bia mộ là đài tưởng niệm những người anh hùng. Trong bài thơ “Đài tưởng niệm anh hùng” (1791), nhà thơ mời Nàng Thơ đến thăm bia mộ của người anh hùng Repnin:
Bên đài nguy nga tưởng niệm người thủ lĩnh
Nàng hãy ngồi, tiếng ca buồn miên man
Hãy nhìn: cột cao kia rồi sẽ bị thời gian
Phá hủy.
Thế nhưng đó là tượng đài vật chất, tượng đài làm bằng đá, bằng đồng, không thể trường tồn cùng thời gian. Cái trường tồn, cái vượt qua thời gian là tượng đài tinh thần, tượng đài thơ ca nơi lưu danh người anh hùng:
Người anh hùng tỏa sáng
Không phải bởi vinh quang vươn tới tận trời xanh
Cũng chẳng cứng như đá, như đồng
Cứ mặc chúng bị thời gian phá hủy
Nhưng phẩm hạnh thì chẳng thế nào có thể
Bị diệt vong trong các truyền thuyết anh hùng.
Truyền thống thơ “đài tưởng niệm” bắt nguồn từ thời cổ đại. “Exegi Monumentum” (Ta dựng cho ta đài tưởng niệm) – bài thơ nổi tiếng của nhà thơ La Mã Horace thế kỷ I trước công nguyên – đã được nhiều nhà thơ châu Âu thời đại của chủ nghĩa cổ điển và thời đại Ánh Sáng mô phỏng theo. Ở Nga vào thế kỷ XVIII, cùng với những cải cách vĩ đại của hoàng đế Piotr I, đất nước (đặc biệt là thành phố Saint Petersburg) trở thành công trường lớn, nơi mọc lên những công trình kiến trúc nguy nga tuyệt mỹ như cung điện, lâu đài,… và rất nhiều đài tưởng niệm. Những lĩnh vực khác của đời sống văn hóa như nghệ thuật, như văn chương trong thế kỷ cũng để lại rất nhiều “đài tưởng niệm” (từ “pamyatnik” trong tiếng Nga có nghĩa là đài tưởng niệm, tượng đài, nhưng cũng được dùng để chỉ những công trình bất hủ, những di tích văn hóa nói chung, trong đó có các tác phẩm văn chương). “Đài tưởng niệm” vì thế trở thành một ẩn dụ để chỉ sự bùng dậy của văn hóa, của văn chương Nga, đặc biệt trong thời đại Ánh Sáng.
Tuy nhiên, “đài tưởng niệm” không chỉ để nói đến sự bùng dậy của văn chương nói chung. Nó còn là sự khẳng định vai trò cá nhân sáng tạo, độc đáo, khác biệt, cách tân – một dấu hiệu quan trọng của sự chuyển biến từ thời đại văn chương cổ điển sang thời đại văn chương lãng mạn, từ thời đại của phong cách chuẩn mực sang thời đại của những phong cách cá nhân ở giai đoạn cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Tác phẩm thơ “Đài tưởng niệm” đầu tiên của Nga là bản dịch Horace từ tiếng Latin của Lomonosov. Derzhavin ban đầu cũng chỉ dự định dịch (hay đúng hơn là mô phỏng) tác phẩm của Horace, nhưng sau đó nhanh chóng rời bỏ nguyên bản tiếng Latin để tạo nên một tác phẩm độc đáo. Đó không đơn giản chỉ là những địa danh Nga được đưa vào:
Danh tiếng về ta rồi sẽ vang xa
Từ Bạch Hải đến tận bờ Hắc Hải
Nơi sông Volga, sông Don, sông Neva
Từ rặng Riphaei – dãy Ural tuôn chảy
mà là ý thức rõ ràng về cái tôi sáng tạo. Ở phần trên chúng tôi đã trích những câu thơ “Đài kỷ niệm” của Derzhavin để nói đến “con đường hoàn toàn khác” mà nhà thơ vạch ra cho mình. Đi trên con đường đó, nhà thơ tự hào về những thành tựu mình đạt được. Cái tôi sáng tạo của nhà thơ được nhắc đến một cách đầy ngưỡng mộ:
Ta dựng cho ta tượng đài vĩnh hằng, kỳ vĩ
Cao hơn kim tự tháp, chắc hơn đồng
Chẳng sợ gì sấm chớp bão giông
Thời gian trôi không làm đổ được[4]
Trong toàn bộ sáng tác của Derzhavin, có thể thấy hình tượng nhà thơ không còn ước lệ, tượng trưng nữa, mà cụ thể với những tâm trạng, những cảm xúc phong phú, sống động. Ông là nhà thơ Nga đã tạo nên một loại “thơ tự truyện” (avtobiograficheskaya poezia/authorbiographical poetry). Việc nhà thơ trong tác phẩm “Bút ký về những biến cố…” kể về bản thân mình như kể về “một người khác”, gọi bản thân mình bằng đại từ nhân xưng ngôi thứ ba đã cho thấy nơi Derzhavin không chỉ có ý thức rõ ràng về “cái tôi”, mà “cái tôi” đó còn biến thành đối tượng để miêu tả, phản ánh, suy ngẫm, chiêm nghiệm. Nhà thơ không chỉ là chủ thể của những cảm xúc buồn, vui, ngưỡng mộ, giễu nhại châm biếm,… mà còn là khách thể tiếp nhận những cảm xúc đó – một sự “phân thân” đặc biệt được quan tâm ở các thế kỷ sau.
Các nhà thơ đầu thế kỷ XIX, trong đó có Pushkin, trong khi làm cuộc cách mạng phá vỡ những nguyên tắc của thi pháp cổ điển thế kỷ XVIII, lại học theo, mô phỏng theo nhiều tác phẩm của “ông già thơ” Derzhavin. Đó không chỉ bởi thời gian sống và sáng tác của ông vắt qua hai thế kỷ, mà còn bởi chính bản thân nghệ thuật thơ ca của ông là cầu nối giữa hai thời đại: chủ nghĩa cổ điển thế kỷ XVIII và chủ nghĩa lãng mạn thế kỷ XIX, là một bước chuẩn bị quan trọng cho “thế kỷ Vàng” của thơ ca Nga.
[1]
Belinsky V.G. Tuyển tập tác phẩm gồm 9 tập, tập 6, Moskva, 1982, trang 14.
[2]
[3]
Bài văn bia một câu độc đáo đó của Derzhavin được khắc trên bia mộ của Suvorov trong nghĩa trang Alexandr Nevsky ở Saint Petersburg. Nhưng lưu lại trong các bản thảo của Derzhavin là bài thơ bốn dòng, viết khi Suvorov mất:
Ôi vĩnh cửu! hãy thôi ồn ào tranh cãi nhau bất tận
Về các đấng anh hùng, ai giỏi nhất trần gian
Hôm nay bước vào thánh đường của người nghiêm thâm
Suvorov
(5/1800)
[4]
Pushkin năm 1836 cũng viết một “Đài kỷ niệm” của mình, trong đó thấy rõ ảnh hưởng của Derzhavin:
Ta đã dựng cho ta đài kỷ niệm
Không bởi sức tay người, đường tới viếng
Cỏ không trùm mất dấu bước thế nhân
Đỉnh tháp ngang tàng sẽ ngẩng cao hơn
Cả trụ thờ Alexandre đệ Nhất
(Bản dịch của Thúy Toàn)